giống như đã nói, nhiều người muốn đặt cho con những cái tên mang lại nhiều điều may mắn, nên có những phương pháp để lựa chọn như :
– Mong thành đạt : có những tên Vượng, Ích, Thành, Đạt, Tiến, Thịnh, Tài, Kiệt, Hiển, Vinh, Phát…
– muốn giàu sang phú quý : có Phúc, Lộc, Vượng, Phát, Tài, Kim, Ngân, Châu, Báu, Ngọc, Ngà, Đại v.v… tránh tên Bần, Tiện, Khó, Khăn, Bé, Ít, Thiểu…
– đưa tính gia phong đạo đức : Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Liêm, Chính, Hiếu, Trọng, Đạo, Đức…
– mang tính sức khoẻ : Cường, Cương, Lực, Kiện, Cao, Tráng, An, Khang… nhưng tránh Nhu, Yếu, Bại, Liệt, Kiết, Thấp, Khớp…
– đưa tính style : Hùng, Dũng, Mạnh, Mãnh, Can, Trường, Quang, Minh, Sáng, Khai…
Trước những năm 1945 khi nền Nho học còn phổ biến , các bậc cha mẹ đặt tên con theo lối chiết tự, nghĩa rất hay và thâm thúy nhưng cái tên nghe lại thô kệch, với phương pháp ghép 2 chữ, 3 chữ đến 10 chữ thành một nghĩa.
Bản chất mỗi chữ đã đưa ý nghĩa của thuyết Bát Quái lấy trong Hà Đồ Lạc Thư như :
– sử dụng 1 nét hay một chữ gọi là Thái Cực (như chữ Nhất chỉ một nét), có nghĩa ngôi cao nhất trong trời đất, gần như đấng tạo hóa đã tạo ra vạn vật muôn loài.
– dùng 2 nét hay hai chữ ghép gọi là Lưỡng Nghi (như chữ Nhị có hai nét từ chữ Nhất ghép lại), có nghĩa Âm Dương giao phối, nơi sinh ra và thu về.
– sử dụng 3 nét hay 3 chữ ghép gọi là Tam Tài (như chữ Tam có ba nét của chữ Nhất ghép lại), để chỉ ngoài Trời và Đất còn có con người.
– sử dụng 4 chữ ghép là Tứ Tượng, 5 chữ là Ngũ Hành, 6 chữ là Lục Hào, 7 chữ là Thất Chính, 8 chữ là Bát Quái, 9 chữ là Cửu Trù, 10 chữ là Thành Quái v.v…
Đồng thời dùng tên 64 quẻ trong Chu Dịch để đặt tên, giống như mong muốn thành đạt đặt tên Tế (quẻ Thủy Hỏa Ký Tế) ghép với họ thành tên Trần Ký Tế hay Phạm Ký Tế… bên cạnh đó với người không thông hiểu nghĩa Hán Nôm hay Chu Dịch, cho chữ Tế là tế lễ, tế thần đồng nghĩa với việc quỳ lạy, van xin, chủ về quy thuận, quy hàng phong thuy so dien thoai
Đến nay tiếng Hán, tiếng Nôm đã mai một, nên ko ai còn dùng cách thức chiết tự để đặt tên cho con cháu nữa, cũng giống như giữa chữ viết Hán Nôm và chữ Việt đã khác, có tên tuy đồng nghĩa nhưng ko đúng nét, có tên lại mang hai ba nghĩa khác nhau (như chữ Tế nói trong thí dụ trên).
bên cạnh đó trong xu hướng đặt tên cho con bây giờ , nhiều người đặt tên với sở thích cá nhân của vợ hay chồng, nên ngoài tên họ (đôi khi họ của cả chồng lẫn vợ ghép lại), chữ lót Văn hay Thị, rồi đến tên sở thích, hay sự ngưỡng mộ giống như Lê Nguyễn Thị Du Lịch (thích ngao du ngoạn cảnh), Nguyễn Trần Hoa Trinh Nữ (tên bài hát, cũng như muốn nói con gái có đạo dức gia phong), Phạm Đỗ Văn Mỹ Tâm (có lẽ thích ca sĩ Mỹ Tâm) v.v…
Cái tên đôi khi nói lên ước muốn tương lai cho con cái, đọc nghe kêu có ý nghĩa, nhưng chưa thật thích hợp với xã hội nhân văn. Bởi nếu tên con là Nguyễn Trần Hoa Trinh Nữ (5 chữ) chỉ là thiểu số cá biệt trong rừng tên 3 chữ từ bao đời nay, sẽ gây để ý đến mọi người, khi lớn chúng gặp bạn chọc ghẹo “có còn trinh nữ ko?”, thật mắc cỡ vô cùng.
thuộc tính QUA 22 CHỮ CÁI
Ngoài những cách đặt tên cho con như đã kéo , trong tâm linh đa số người Việt còn đặt tên con theo 22 chữ cái, với các ý nghĩa mang tính thần bí của mỗi chữ, sau khi đi theo nguyên tắc hộ tịch :
1- Họ : nguyên tắc về hộ tịch quét họ cha, nếu cha vô danh mới quét họ mẹ. ngày nay nhiều cha mẹ lấy cả hai họ cham diem số sim
2- Chữ lót tên : ngày xưa chữ Văn dùng để chỉ con trai, chữ Thị để chỉ con gái. Nhiều địa phương miền Trung không dùng chữ lót mà chỉ có họ và tên. hiện tại nhiều người không dùng Văn hay Thị mà thay bằng chữ ghép với tên như Trần Huệ Phương, Nguyễn Tâm Dung. thành ra thỉnh thoảng mới đọc tên có thể nhầm lẫn về giới tính.
3- Tên : là tên đi vào lý lịch. như Trần Huệ Phương, ở các nước Âu Mỹ sẽ được ghi thành : Phương – Trần Huệ (tên đi trước họ). Nên dù tên đơn, tên ghép, cũng chỉ lấy một tên ở cuối là chính.
Nói về tính chất thần bí qua 22 chữ cái dùng đặt tên cho con (thực tế có đến 26 chữ cái, nhưng những chữ ko phù hợp để đặt tên theo tiếng Việt giống như J, F, W, Z nên chúng tôi loại bỏ). giống như muốn đặt tên giống như Phương xem vần P, tên Nhung xem vần N…
– Các vần A, S : tính kiên quyết , thành thật nên hay cứng rắn trong quyết định, can đảm dấn thân và ghét kẻ xu nịnh. Những ai mangvần chữ cái A và S có tính tự tôn, tự đại, thành ra thích làm người chỉ huy, lãnh đạo hơn làm cấp dưới quyền. Cuộc sống tình cảm thường độc đoán, khắc khe nên gia đạo ko trọn vẹn hạnh phúc. Công danh sự nghiệp dễ đạt đến thành công, tiền của đi song hành theo đường quan lộc.
– Các vần B, K và T : người có duyên ngầm, có số đào hoa và giỏi về giao tế xử sự . Tính tình phúc hậu, thương người, đồng thời được mọi người giúp đỡ. Càng lớn tuổi danh vọng, địa vị càng cao, tiền tài không thiếu.
– Các vần C, L và U : có tính khiêm tốn, biết phục thiện, ham tìm tòi học hỏi. Người thông minh, sáng suốt khi khắc phục và có khả năng vượt mọi trở ngại để đạt mục tiêu . Trong tình cảm thường gặp đỗ vỡ, không những thế đến hậu vận có một mái ấm hạnh phúc tuyệt vời. Công danh sự nghiệp thường không bằng phẳng phải có người giúp đỡ, tài lộc vì vậy ko có của để dành.
– Các vần D, M và V : thành công về sự nghiệp, danh vọng cũng như vật chất nhưng ko to tát lắm. Về tình cảm có cuộc sống bình dị, chừng mực không ồn ào, thích nơi yên tĩnh. Tính tình ghét việc gian xảo like có sự bình đẳng giữa mọi người, không lo xa, sống hết mình với vợ con và thân hữu nhưng do ko phô trương thường dễ bị hiểu lầm. Những người mang vần D, M và V có số đào hoa, con cái có đứa thành đạt có đứa hư hỏng do “con gái đức cha, con trai đức mẹ”, hậu vận gặp nhiều biến đổi xem boi so dien thoai
– Các vần E, N : thuộc chu kỳ nhập cung trung, là nơi xuất hành cũng giống như thu về, nên cuộc đời sướng khổ triền miên giống như câu “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”, nhưng vẫn vượt qua được phong ba bão táp. Do mang thuộc tính thay đổi nên tích lũy được nhiều kinh nghiệm để phát huy những sáng kiến về sau. like di du lịch, giỏi ngoại ngữ, tình cảm cũng nhiều sôi nổi lẫn bi đát. Công danh sự nghiệp thường trung bình, nếu vượt quá hạn chế sẽ gặp hung sát. Tài lộc ko có gì nổi bậc.
– Các vần G, P và Y : có tính trầm lặng, like yên tĩnh và trung thực với bản thân, không khoa trương, rất tự giác cầu tiến để tự điều chỉnh lấy mình. Do có đời sống nội tâm cao dễ bị hiểu lầm là người ích kỷ. Về tình cảm thường cao số, nên những mối tình đầu hay tan vỡ cuối cùng chỉ quét người tưởng ko duyên số mà thành đôi. Công danh sự nghiệp ko mấy thành đạt, số chỉ buôn bán nhỏ (tiểu thương), nhà đất tiền tài không nhiều.
– Các vần H, Q : giàu sự tự tin like tự lập, ưa nghe lời tâng bốc nên nhiều khi bị tiểu nhân lợi dụng. Tính hay can thiệp vào chuyện bất bình, có những can thiệp theo kiểu “ăn cơm nhà vác tù và hàng Tổng” nhưng vẫn thấy hứng thú lao vào, do tính hiếu thắng và tự đại. Có duyên ngầm nhưng nhút nhát trong tình cảm, thành ra đời sống tình cảm thường bình lặng, đồng ý hạnh phúc sẵn có. Công danh sự nghiệp vững chắc từ tuổi 37 trở lên, nên bảo đảm cuộc sống từ hậu vận.
– Các vần I, R : biết hòa mình cùng tập thể nhờ tính thích hòa nhập, nhưng hay cố chấp bảo thủ, lại ko thích đua chen, không biết lo xa nên coi thường đường công danh sự nghiệp. Trong tình cảm lại buông thả đam mê khi đã yêu ai, sẵn sàng chết vì yêu, nên khi có gia đình rất chung thủy với vợ biết lo cho con cái. Số thọ và đông con. Vần I và R đưa con số 8 thuộc quẻ Cấn, có nghĩa là núi (Sơn) nên dù coi thường đường công danh sự nghiệp nhưng vẫn vững vàng, nhưng trì trệ tăng trưởng . Tài lộc hơn trung bình, nếu bộc phát nhanh sẽ sớm tàn lụi.
– Các vần O, X : đưa tính bặt thiệp, giao tế cư xử tốt, duyên dáng trước mọi người, được giao nhiêu công viêc tưởng vượt quá khả năng nhưng vẫn hoàn thiện xuất sắc. Khéo tay nên có khiếu về mỹ thuật điêu khắc, hội họa và âm nhạc (nhạc sĩ). Tình cảm do đó rất ủy mị, like được chiều chuộng và yêu thương tim so dien thoai
Công danh sự nghiệp tuy không thành đạt vẻ vang, nhưng hậu vận cũng không khốn khó, có của cho con cháu. Nữ nếu hồng nhan sẽ bạc phận, không bạc phận cũng truân chuyên, nam bạo phát cũng bạo tàn.
Khi tìm vần đặt tên theo các tính chất trên, cần biểu thị tên lót và tên chính đúng với giới tính, để tránh gây lầm lẫn trong các loại giấy tờ không có nhân dạng, cũng là cách biểu thị tính Âm Dương được rõ ràng.
giống như tên Lan, Cúc thường đặt tên cho nữ, còn Hùng, Mạnh thường đặt cho nam, trở thành tập quán và thói quen nhận định của mọi người.
Ngày xưa các bậc ông cha không đặt tên con cháu theo kiểu “ái nam ái nữ”, vì cho rằng sẽ có huông theo tên, thí dụ nam giới mà đặt tên Nguyễn Văn Liễu sau này sẽ có tính ẻo lã giống như con gái, ốm giống như thân liễu, cành liễu v.v…