Có rất nhiều lễ hội theo tín ngưỡng dân gian tại nước ta, tại các nước châu Á hay trên toàn cầu, có những lễ hội được thấy đưa đầy tính huyền bí, nếu không nói là mê tín dị đoan, như tín ngưỡng thờ Mẫu mỗi khi người mộ đạo “lên đồng” cầu Thần nhập xác, nhưng đến nay “lên đồng” đang được những nhà tìm hiểu về “văn hóa tâm linh” nhận xét, đây là nét văn hóa dân tộc truyền thống, phi vật thể, thể hiện vào đời sống tâm linh của những người sùng đạo.
vì thế chúng tôi mong muốn giới thiệu những hình thức sùng bái khác, đầy tính huyền bí, từ trong nước ra đến nước ngoài, nay đã thành tập quán không thể chối bỏ, vì hàng năm người ta đơn vị thành những lễ hội đầy màu sắc và sắc thái dân gian, được đông đảo mọi người đến tham gia hoặc hành hương.(xem so dien thoai)
1/- TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC
Việc sinh sản được mọi người trên thế giới xem giống như Nhiệm vụ tối cần thiết trong một đời người, ai không có con cái tức người đó sẽ tuyệt tự và thỉnh thoảng bị gán tội “bất hiếu” với liệt tổ liệt tông, và đưa tiếng thị phi cho là, do kiếp trước có quá nhiều con rơi con rớt không chịu cưu mang chúng, nên đã tạo ra nghiệp chướng, kéo đến kiếp này phải trả giá (?!).
cho nên có việc sùng bái sinh sản tức tín ngưỡng phồn thực, thờ “sinh thực khí”. Việc sùng bái này đã có từ khi loài người mới xuất hiện, lúc đó trong tư duy mọi người chỉ mong muốn vạn vật như cây cối, lương thực và con người có sự nảy nở và sinh tồn luôn luôn .
Dấu vết của tín ngưỡng phồn thực, thờ sinh thực khí tức thờ biểu tượng Âm Dương của nam nữ, như cặp Linga và Yôni hay nhảy múa trước vật Nõ Nường, với hình thức cái chày vồ và cái mo cau… đã nói lên điều đó. Thực ra, người Việt chúng ta ko xa lạ gì với việc thờ, rước sinh thực khí. Theo ông Nguyễn Minh San viết trong cuôn Những thân nữ danh tiêng… đã nghiên cứu :
– “Việc thờ cúng có từ rất sớm, từ thời đại đồ đồng công thức nay khoảng 4.000 năm, khi nông nghiệp trồng lúa ở nước ta đã khá tăng trưởng. Nhưng thuở đó con người còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, sức sản xuất hạn chế, dân số chưa đông, tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” còn đa dạng. Lại thêm tình hình quốc gia bị chiến tranh giặc giã (NV : từ năm 111 Tcn – đã bị nhà Hán đô hộ, và dẫn dài cả ngàn năm), đã trộm đi không biết bao nhiêu sinh mạng. thành raước vọng cháy bỏng nghìn đời của người xưa là được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi nảy nở, con đàn cháu đống.(phong thuy sim)
“Ước vọng phồn thực của ông cha ta thể hiện phổ biến nhất trong các hội hè đình đám, ở nhiều vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ. Tương tự giống như phương thức gọi Linga và Yôni ở những vùng khác, vùng Bắc bộ có hai thứ “nõ nường” chỉ sinh thực khí nam nữ, được tượng trưng bằng một chiếc chày bằng gỗ vông và một chiếc mo cau. Chiếc chày tượng trưng cho dương vật; còn chiếc mo cau tượng trưng cho âm vật (có khi được cắt giống như hình âm vật)”.
do vậy người ta chưa biết phải xếp hạng việc thờ cúng sinh thực khí là chánh hay tà, vì quan niệm đánh giá việc thờ cúng này chưa được nhất quán trong giới tìm hiểu về văn hóa tâm linh.
A/- LINGA VÀ YÔNI
Dân tộc Champa (còn gọi người Chăm hay Chàm) sống rất đông ở các tỉnh miền Trung, chạy dài từ Quảng Bình xuống đến Bình Thuận.
Người Chăm thường tổ chức lễ hội cầu yên, có tên Raja Prông, nhằm tống tiễn những cái xấu xa tội lỗi năm cũ, xin sự may mắn cho mọi nhà, trong đó có lễ “cầu con”.
Để tiến hành lễ hội, người Chăm (Chăm Ni theo đạo Hồi, còn Chàm Chăm theo đạo Bà La Môn) đóng góp tiền gạo rồi dựng rạp bằng lá buông, cửa rạp Nhìn về hướng tây phía trước là một sân rộng.(xem chiếc sim phong thuy)
Chủ tế cho buổi lễ cầu yên là một ông thầy điều khiển dàn nhạc, tay vỗ trống miệng vừa hát vừa khấn thần, chủ tế được gọi bằng Pô M’Duôn, và một bà đồng bóng được gọi là mụ M’yâu. Cả hai ăn mặc diêm dúa, nhiều màu sắc trên thân người, có lẽ để thu hút sự chú ý của thần linh.
Buổi lễ bắt đầu vào lúc trời vừa tối, các thầy Po Chan (tăng lữ Chăm-Ni) đến cầu kinh trong rạp, rồi mời các vị thần linh về sử dụng lễ vật do dân chúng dâng lên, mỗi thần có một mâm riêng gồm cơm, rượu, bánh, trái… theo lời cầu khấn với vị thần nào mà bưng mâm của vị thần ấy đặt trước mặt thầy Po Chan.
Sau lễ cơm thần, các thầy Po Chan Chăm Ni ra về. Sau đó các tăng lữ Bà La Môn đến điều khiển tiêp lễ hội, vào khoảng giữa đêm.
Các tăng lữ Bà La Môn đốt một đám lửa trước sân rạp để cầu khấn, rồi nhảy múa quanh nó; lúc đó Pô M’Duôn tay mới vỗ trống, miệng ê a bài hát kể sự tích các vị thần linh, mỗi thần có một bài hát riêng, như thần Ánh Sáng (Pô Chabya), Thần Trai (Pô Đăm), Thần Gái (Pô Đra), Thần Siva, Thần Vitnu, Pô Klong Krai, Pô Rome… Khi chấm dứt đêm thứ nhất là cuộc lễ mời rượu các vị thần linh.(y nghia so dien thoai)
Tối thứ hai là một ngày hội vui, người ta dựng một cây đu, mụ M’yâu ngồi lên cây đu và ông Pô M’Duôn đi xung quanh vừa hát vừa vỗ trống, sau đó một người đàn ông hay thanh niên tay cầm chày, lưng đeo giỏ vừa múa hát vừa đánh chày cho đến khuya.
Người đàn ông tay cầm cây Linga (tức cây chày sinh thực khí, một vật thuộc giống đực, còn Yôni thuộc giống cái) múa hát, rồi dắt Linga trước bụng hoặc cạnh sườn, tay làm điệu bộ bật lên bật xuống theo động tác mời gọi, đi vòng quanh sân.
Khi đó trong rạp mụ M’yâu tay cầm Yôni bước ra sân, cũng vừa múa vừa hát cầu nguyện, đoạn cho hai thứ va chạm vào nhau mấy lần. Đoạn hai người đặt hai thứ Linga và Yôni lên mâm có phủ vải đỏ đưa vào để trong rạp, sáng hôm sau có người đưa đi bỏ ở những gò cao hay gò mối trong làng.
Theo ý kiến người Chăm, những chỗ gò này là nơi trú ngụ của các hồn ma hay gây bệnh tật cho con người không sinh nở được, bỏ Linga và Yôni ở đó sẽ làm chúng sợ hãi mà bỏ đi khỏi làng, mọi người mới có thể sinh ra con cái.
Tối thứ ba gọi là tối thả thuyền (Palao hó). Người ta kết những chiếc thuyền bằng bẹ chuối để sẵn trong rạp, quanh thuyền cắm cờ kết lá buông làm hình chim muông, thú vật, hình tam giác. Pô M’Duôn đến cầu khấn cho thôn xóm bình an xong, chấm dứt buổi lễ bằng cuộc thả thuyền tống tiễn.(xem phong thuy sim)
Múa hát âm dương đưa tín ngưỡng phồn thực nói trên, thường thấy trong các lễ hội của người Chăm tại tỉnh Ninh Thuận (Bình Nghĩa – Ninh Hải), có khi họ ko nhảy múa một đôi giữa một nam một nữ, mà chỉ một người múa với hai thứ sinh thực khí trong tay, khi múa nghệ nhân để người trần, thân quấn sà-rông; động tác múa sôi động lúc đưa mông hẩy hay lúc lắc thân người, chủ yếu biểu hiện cầu xin cho dân làng sinh sôi nảy nở.
B/- NÕ – NƯỜNG
Trong tục múa “nõ nường” tại huyện Lạp Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, việc thờ cúng sinh thực khí khi múa “nõ nường” được biểu hiện như sau, khi đó ở giữa đình có một nam một nữ tuổi thanh xuân đứng hai bên bàn hương án, cùng vị chủ tế đứng giữa hai người để điều khiển. Người thanh niên tay cầm cái chày gỗ còn cô thiếu nữ tay cầm một mo cau.
Khi vị chủ tế cúng tế trình Thần Thánh xong, cho phép anh thanh niên hỏi thiếu nữ : – “Cái sự làm sao ?” Cô thiếu nữ liền đáp : – “Cái sự là vầy”.
Nói xong hai người mang ra hai vật chày và mo cau cho đụng vào nhau ba lần, nếu cái chày trúng đích thì năm đó cả làng sẽ sinh được nhiều con và làm ăn thịnh vượng phát tài.
Làng Đồng Kỵ, Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc trong lễ rước sinh thực khí cũng có điệu múa “nõ nường” như thế, mô phỏng động tác giao hợp do một vị trưởng lão trong làng thực hiện. Ở một số làng sau khi cúng bái thần linh, biểu hiện tín ngưỡng phồn thực xong, hai thứ sinh thực khí được tung ra cho dân chúng trộm quét đem về “cầu tự”. Tại Sơn Đông, Hà Tây cũng có tục múa mo tương tự.(phong thuy so dien thoai)
C/- NHỮNG HIỆN VẬT
THỜ CÚNG SINH THỰC KHÍ
Ở miếu Bà Chúa Xứ tại núi Sam, Châu Đốc; ở điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu tức Bà Đen, trên núi Điện Bà tỉnh Tây Ninh, mỗi nơi đang thờ một cây Linga.
Riêng cây Linga ở miếu Bà Chúa Xứ đặt trên bàn thờ ngang với bệ Bà, nằm bên phải. Cây Linga này bằng đá xám, cao trên 70cm, đường kính trên 40cm, phần thân có 8 cạnh, đầu tròn và nhẵn. Người hành hương nói bàn thờ trên là bàn thờ Cậu.
Còn trên đỉnh núi Sam có bệ đá xanh vốn dùngđặt tượng Bà (trước khi người dân Châu Đốc thỉnh tượng Bà xuống ngự tại ngôi miếu bây giờ). Bệ đá có một lỗ hình vuông, trùng khớp nhau về gu ngỗng, tức Yôni đồng bộ với cây Linga đang thờ tại miếu.
Còn tại điện thờ Linh Sơn Thánh Mẫu tức Bà Đen, khách hành hương Quan sát thấy bên hang điện còn có 2 miếu nhỏ thờ Ông Tà, thờ một hòn đá hình trụ cao gần năm tấc, đường kính khoảng một tấc, như cây Linga thờ ở miếu Bà Chúa Xứ, trên phiến đá thờ Ông Tà được trùm một tấm vải điều đỏ.
Về lai lịch của hòn đá dài này không ai rõ, nhưng khi biết tên gọi hòn đá là Ông Tà, mọi người ngầm hiểu hòn đá được thờ là sinh thực khí thuộc dương, trong tín ngưỡng phồn thực.(xem phong thuy so dien thoai)
Ở chùa Dạm tại Hà Bắc, có một cây cột đá có niên đại vào thế kỷ XII, cũng là biểu tượng của Linga-mukha. Và một bằng chứng khác cho thấy, tín ngưỡng phồn thực đã tồn tại từ lâu đời tại nước ta. Cụ thể trên thạp đồng Đào Thịnh, nghệ nhân xưa đã tạc 4 khối tượng nam nữ đang giao hoan nằm nổi bật ở những vị trí cần thiết trên nắp thạp.
pic của tượng đôi nam nữ nằm lên nhau, người đàn bà ở dưới cởi trần, lồi ngực, tấm vải làm váy chỉ quấn che một đoạn, để lộ đôi chân dài duỗi thẳng, còn hai tay ôm đỡ lấy người đàn ông, tượng khắc cho thấy rõ cả phần dương vật theo lối đặc tả cảnh ân ái.
Bà chúa ngựa
Còn tại Đông Anh ngoại thành Hà Nội, có miếu thờ Bà Chúa Ngựa, tương truyền miếu lập ra theo một truyền thuyết có xuất xứ từ bên Trung Hoa, cũng mang hình ảnh thờ sinh thực khí.
Tương truyền có một gia đình, người chồng gầy ốm và bất lực trước một bà vợ tuổi đang xuân, nhưng chây lười chỉ like hưởng lạc. Do người chồng cung ko đủ cầu những đòi hỏi của vợ, nên bà ta đêm nào cũng bắt những thanh niên trai tráng là gia nhân trong nhà phải vào ngủ với bà ta, đến nỗi bọn thanh niên phải sợ hãi bà ta mà bỏ đi trốn.(chiếc sim hop tuoi)
Cuối cùng để thỏa mãn đòi hỏi, bà vợ cho người làm một con ngựa cái rỗng ruột, tô điểm như con ngựa thật. Đến đêm bà ta chui vào ruột ngựa năm, rôi cho người dăt ngựa đực đên. Nhưng bà vợ không biết giống ngựa đực khi gieo giống sẽ hung hãn ra sao, nên sau mấy bận động đực khiến bà ta kêu rú lên, rồi nằm chết luôn trong bụng con ngựa giả.
Sau khi chết, đêm nào bà cũng hiện hồn về gặp các trai làng năn nỉ : “anh ngủ với tôi, tôi cho nén vàng”, khiến bọn đàn ông con trai trong làng thường xuyên bỏ đi không dám quay về.
Để khỏi bị “yêu nữ” quấy nhiễu, dân trong làng mới lập miếu thờ bà ta. Đến ngày giỗ người ta chẻ tre đan thành một con ngựa cái để đem cúng, khi tế lễ vị chánh tế tay cầm một cái dùi gỗ đâm vào phía sau con ngựa giả theo nhịp trống. Miệng nói ba lần “Cái sự làm sao ? Cái sự thế này !…” Nhờ thế mà bà ta không về chọc ghẹo bọn đàn ông con trai nữa.
Miếu thờ trước hết được gọi “Miếu bà Ngựa”, nhưng về sau thấy bà linh thiêng nên mọi người tôn kính gọi bằng “Miếu bà Chúa Ngựa”.(các con sốphong thủy)
Nguồn: Phongthuysim.vn