Cúng Giao thừa hay lễ Trừ Tịch: Theo tục lệ cổ truyền thì “giao thừa” được tổ chức nhằm đón các thiên binh. Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội ko kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà.
Mâm lễ được sắp bày với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người mới xuống làm nghĩa vụ cai quản hạ giới năm tới.

Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc đưa theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã.
thỉnh thoảng có thêm chiếc mũ của Đại Vương hành khiển. Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc.
khởi đầu vào lúc giao thừa, và cũng kết thúc vào lúc giao thừa. Theo Từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh, giao thừa nghĩa là cũ giao lại, mới đón quét.
Cao đài Từ điển giải nghĩa trừ tịch thì trừ: bỏ đi, bớt ra, cuối năm; tịch: đêm và Giao thừa thì giao: giao tiếp và thừa: liên tục.
Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để ” khu trừ ma quỷ”.
Sau khi cúng Giao thừa xong, các gia chủ khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết.
Ở Nam bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa và thờ ở dưới đất. Sau khi cúng xong, xem giống như Tết thực sự đã đến với gia đình.
+ tại sao cúng Giao thừa ngoài trời ?
Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay all quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí giống như quan toàn quyền.
Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy ko trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không Nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì.
Những phút ấy, các gia đình mang xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nghĩa vụ cai quản hạ giới năm tới.
Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức gấp rút nên các vị ko thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
+ Phẩm vật cúng lễ giao thừa
Tại các đình, miếu, cũng như tại các tư gia, lễ giao thừa đều có cúng mặn. Các ông Thủ Từ lo ở đình, miếu, còn tại các tư gia do người gia trưởng trù liệu.
Xưa kia người ta cúng giao thừa ở đình, ông Tiên chỉ hoặc Thủ Từ đứng làm chủ lễ, nhưng người ta cũng giao thừa ở thôn ở xóm nữa.

Lễ giao thừa ở các thôn xóm được đơn vị hoặc tại các Văn Chỉ nếu Văn Chỉ Làng xây tại xóm, nếu không thì cũng đơn vị ngay ở tại điểm canh đầu xóm. Ở đây, vị được cử ra làm chủ lễ là vị niên trưởng hoặc vị chức sắc cao nhất trong thôn xóm.
+ Bàn thờ được xây dựng ở giữa trời
Một chiếc bàn hương được kê ra, trên hương án có đỉnh trầm hương hoặc bình hương thấp tỏa khói nghi ngút. Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.
Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, thỉnh thoảng có cỗ mũ của Đại Vương Hành Khiển.
Lễ quý hồ thành bất quý hồ đa, nhưng dù nhiều hay ít, lễ vật bao giờ cũng phải gồm có vàng hương, vàng lá hay vàng thoi (giấy tiền vàng bạc) tùy tục địa phương, và nhất là không quên được rượu, vì “vô tửu bất thành lễ”.
+ Lễ vật được trần thiết trên hương án trước giờ trừ tịch
Đến giờ phút này, chuông trống vang lên, ông chủ tế ra khấn lễ, rồi dân chúng kế đó lễ theo, với toàn bộ sự tin tưởng ở vị Tân vương Hành khiển, cầu xin ngài phù hộ độ trì cho được một năm may mắn, bao nhiêu sự không may năm trước sẽ qua hết.
Tại đình làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ Thành Hoàng hoặc vị Phúc Thần tại vị nữa.
Các chùa chiền cũng có cúng lễ giao thừa, nhưng lễ vật là đồ chay, và đồng thời với lễ giao thừa nhà chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng đức Ông tại chùa.
.jpg)
Ở các tư gia, các gia trưởng thường lập bàn thờ ở giữa sân, hoặc ở trước cửa nhà, trường hợp những người ở thành phố chật chội ko có sân, cũng bày một chiếc hương án, hoặc một chiếc bàn kê ra với lễ vật như trên.
hiện nay ở thôn quê, rất ít nơi nào còn cúng giao thừa ở thôn xóm, ngoài lễ cúng ở đình đền. Và ở các tư gia, tuy người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính giống như xưa, nhưng bàn thờ thật là giản tiện.
Có khi chỉ là chiếc bàn con với mâm lễ vật, có khi mâm lễ vật đặt trên một chiếc ghế đẩu. Hương thắp lên được cắm vào một chiếc ly đầy gạo hoặc vào một chiếc lọ nhỏ để giữ chân hương. Có nhiều gia đình lại quá giản tiện hơn, hương thắp ngay trên mâm lễ, hoặc cắm vào các khe nải chuối dùng làm đồ lễ !
– Đại Vương Hành Khiển và Phán Quan
Mười hai vị đại vương, mỗi năm một vị cai quản cõi nhân gian là Thập nhị Hành Khiển đại vương , tính theo nhập nhị chi, bắt đầu là năm Tý, cuối cùng là năm Hợi. Hết năm Hợi cũng quay lại năm Tý với Đại vương Hành Khiển mười hai năm về trước.
Các Đại vương này còn được gọi là “Đương Niên Chi Thần”, mỗi vị có trách nhiệm như trên đã nói cai trị thế gian trong toàn niên, xem xét mọi việc hay dỡ của từng người, từng gia đình , từng thôn xã cho đến từng quốc gia để định công lý luận tội, tâu lên Thượng Đế.
Mỗi Đại vương Hành Khiển đều có một vị Hành Binh và một Phán Quan giúp việc.
Vị Đại vương Hành Khiển lo việc thi hành những mệnh lệnh của Ngọc Hòang Thựơng đế, trình lên Ngọc Hòang những việc đã xảy ra. Còn vị Hành Binh lo giữ an ninh, trật tự địa phương, Phán Quan thì lo việc ghi chép công, tội của mọi người, mọi gia đình , mọi thôn xã, mọi đất nước.
Trong các vị Hành Khiển Đại Vương , có vị nhân đức, có vị cương trực và cũng có vị khắc nghiệt. Nhiều năm có các loạn thiên thời, lọan đạo binh, nạn thủy tai, hỏa tại… tục tin rằng đó là do các vị Đại Vương Hành Khiển trừng phạt nhân gian vì tội lỗi của mọi người.